Tại sao các nhà đầu tư nên ủng hộ “Nền kinh tế cơ hội” của Kamala Harris

Ladder on Stack of Coins

(SeaPRwire) –   Mục tiêu kinh tế cốt lõi của Kamala Harris là xây dựng một “nền kinh tế cơ hội” cho nước Mỹ. Vào tháng 8, bà đã tuyên bố tại Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ rằng bà sẽ “tập hợp lực lượng lao động và công nhân, các chủ doanh nghiệp nhỏ và doanh nhân, cũng như các công ty Mỹ để tạo thêm việc làm.” Có một thành phần khác sẽ rất quan trọng trong việc quyết định sự thành công hay thất bại của mục tiêu của Harris – đó chính là thị trường vốn. Nếu được bầu, thử thách đối với chính quyền Harris sẽ là xây dựng các chính sách khiến các nhà đầu tư toàn cầu ủng hộ “nền kinh tế cơ hội”.

Hai yếu tố quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là, thứ nhất, một nền kinh tế đang phát triển và thứ hai, một thị trường chứng khoán đang tăng trưởng. Rõ ràng, có rất nhiều yếu tố sẽ quyết định cả hai kết quả. Tuy nhiên, có bằng chứng rõ ràng cho thấy mức độ bất bình đẳng thấp hơn có tương quan với tăng trưởng kinh tế tổng thể cao hơn, và các công ty có các thực tiễn bao trùm tạo ra giá trị bền vững cho cổ đông của họ.

Tăng trưởng kinh tế

Nằm trong tầm nhìn của Harris là giả định rằng tăng trưởng kinh tế không phải hy sinh để đổi lấy một thỏa thuận công bằng hơn cho người lao động, điều này xây dựng một tầng lớp trung lưu vững mạnh. Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế đã mạnh mẽ hơn ở Hoa Kỳ trong những thời điểm bất bình đẳng thấp hơn và công bằng hơn đối với người lao động. Như nhà kinh tế Heather Boushey đã viết trong cuốn sách Unbound, How Inequality Constricts Our Economy and What We Can Do About It, khi mọi người không có cơ hội, toàn bộ nền kinh tế bị thiệt thòi về tài năng và ý tưởng, điều này làm suy yếu thị trường của chúng ta và kéo giảm tăng trưởng kinh tế. Trong những năm 2000, nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ tăng trưởng trung bình 2,6% mỗi năm (giảm xuống chỉ còn 1,6% trong thập kỷ 2006-16). Kỷ nguyên tăng trưởng thấp này được đánh dấu bởi sự gia tăng bất bình đẳng và tầng lớp trung lưu thu hẹp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng từ năm 1980 đến năm 2014, thu nhập trung bình của 1% người Mỹ giàu nhất đã tăng từ $420.000 lên $1,3 triệu, trong khi nửa dưới của người Mỹ trải qua thu nhập trì trệ trong cùng giai đoạn.

Đây là sự đảo ngược của điều kiện kinh tế thịnh hành ở Mỹ trong ba thập kỷ sau Thế chiến thứ hai khi cả tăng trưởng kinh tế cùng lúc. Nền kinh tế tăng trưởng trung bình khoảng 4% mỗi năm trong thời kỳ này khi quốc gia trải qua sự bất bình đẳng thu nhập thấp hơn nhiều.

Sự phân kỳ giữa mức lương của Giám đốc điều hành và người lao động trung bình trong thời kỳ hậu chiến cho thấy rõ ràng đã thay đổi trong nhiều thập kỷ. Trong 20 năm đầu tiên sau Thế chiến II, Giám đốc điều hành kiếm được gấp 21 lần mức lương của người lao động trung bình. Đến những năm 2020, mức lương của Giám đốc điều hành đã tăng vọt lên so với mức lương của người lao động trung bình, làm gia tăng đáng kể khoảng cách giữa nhân viên điển hình và giám đốc điều hành doanh nghiệp. Những người có lý trí nên đồng ý rằng giải quyết sự mất cân bằng này không phải là chủ nghĩa xã hội. Thay vào đó, đó là một sự điều chỉnh công bằng và cần thiết, ngay cả khi nó sẽ gây ra một số đau khổ cho những thành viên được trả lương cao nhất trong xã hội của chúng ta.

Harris đứng vững trên lập trường của mình khi tin rằng đạt được mức tăng trưởng kinh tế tổng thể cao hơn không nhất thiết phải hy sinh phúc lợi của người lao động. Trên thực tế, lịch sử cho thấy khả năng mở rộng kinh tế cao hơn với cơ sở thịnh vượng rộng lớn hơn.

Giá trị dài hạn

“Nền kinh tế cơ hội” cũng sẽ được đánh giá bởi thị trường chứng khoán tổng thể và định giá công ty cụ thể. Về yếu tố này, không thiếu bằng chứng cho thấy các công ty cung cấp mức lương và phúc lợi cạnh tranh, cũng như cơ hội thăng tiến cho người lao động của họ, là những doanh nghiệp bền vững hơn và tạo ra giá trị tốt hơn cho cổ đông của họ.

Điều này được minh chứng bởi theo dõi 100 công ty niêm yết công khai hàng đầu tại Hoa Kỳ trả lương công bằng và lương tối thiểu, cung cấp phúc lợi cho người lao động cạnh tranh và ưu tiên sự di động hướng lên cho những người lao động có thu nhập thấp hơn. Kể từ khi ra đời, Chỉ số Just 100 đã vượt trội so với Russell 1000 44,8% – chứng minh rằng các công ty đầu tư vào người lao động tạo ra giá trị cổ đông dài hạn được tăng cường.

Tương tự, ETF “Harbor Human Capital Factor (HAPI)”, đứa con tinh thần của nhà kinh tế Dan Ariely, xác định các công ty có văn hóa thân thiện với người lao động, lập luận rằng điều này thúc đẩy sự thành công của công ty và cuối cùng là giá cổ phiếu của nó. HAPI đã liên tục S&P 500 bằng cách mang lại lợi nhuận gấp đôi so với S&P.

Các nhà đầu tư, lãnh đạo doanh nghiệp và chính phủ có cùng chí hướng nên cùng nhau xây dựng “nền kinh tế cơ hội” này và chôn vùi, một lần và mãi mãi, lời nói dối rằng tăng trưởng kinh tế và thành công của doanh nghiệp sẽ bị tổn hại nếu người lao động được đối xử công bằng. Như , cựu Giám đốc điều hành của American Express đã nói tại Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ, “đó là điều có thể, trên thực tế, cần thiết… để vừa ủng hộ doanh nghiệp vừa ủng hộ người lao động.”

Kể từ sau hậu quả của , tôi đã làm việc với một số nhà đầu tư tổ chức lớn nhất thế giới, cũng như các Giám đốc điều hành và lãnh đạo xã hội có tầm nhìn xa trông rộng, để khuyến khích các công ty đối xử công bằng với nhân viên của họ, nắm bắt vai trò tích cực của họ trong xã hội và cam kết xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Phong trào này có thể phát triển và công việc của chúng tôi sẽ được tăng tốc bởi các cải cách pháp luật và quy định được thiết kế tốt, tạo ra một “nền kinh tế cơ hội” năng động, bền vững, bao trùm và đáng tin cậy.

Bài viết được cung cấp bởi nhà cung cấp nội dung bên thứ ba. SeaPRwire (https://www.seaprwire.com/) không đưa ra bảo đảm hoặc tuyên bố liên quan đến điều đó.

Lĩnh vực: Tin nổi bật, Tin tức hàng ngày

SeaPRwire cung cấp phát hành thông cáo báo chí thời gian thực cho các công ty và tổ chức, tiếp cận hơn 6.500 cửa hàng truyền thông, 86.000 biên tập viên và nhà báo, và 3,5 triệu máy tính để bàn chuyên nghiệp tại 90 quốc gia. SeaPRwire hỗ trợ phân phối thông cáo báo chí bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng Trung Giản thể, tiếng Trung Truyền thống, tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Indonesia, tiếng Mã Lai, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và các ngôn ngữ khác.