Tổng thống Joe Biden đang chứng tỏ là Tổng thống Mỹ thân thiện nhất với Israel từ trước đến nay

(SeaPRwire) –   Tổng thống Biden đang chứng tỏ mình, theo một số đo lường, là tổng thống Mỹ thân thiện nhất với Israel trong lịch sử.

Bắt đầu từ ngày rất 7 tháng 10, khi Hamas gây ra các vụ tấn công khủng bố ở Israel, và khẳng định nhu cầu phải đáp trả bằng lửa. Ông đã tăng tốc viện trợ quân sự và, đáng chú ý nhất, ông đã bay đến Israel và ngồi trong hội đồng chiến tranh của Thủ tướng Benjamin Netanyahu. Mặc dù chắc chắn có truyền thống lâu đời về “mối quan hệ đặc biệt” giữa Mỹ và Israel, Biden đã đi đến nơi mà không có tổng thống Mỹ nào từng đến trong một trong những cuộc chiến của Israel – không chỉ về mặt thể chất mà còn về chính trị và chiến lược.

Các tiền nhiệm của Biden thường quyết định cách xử lý các cuộc chiến Ả Rập-Israel bằng cách thực hiện tính toán về địa chính trị và chính trị Mỹ. Thường họ ưu tiên hạn chế tác động của những cuộc chiến này đối với các mục tiêu chiến lược của Mỹ. Vị trí chính trị trong nước của mỗi tổng thống cũng hình thành hành động của họ. Sự hỗ trợ của Biden đối với Israel, ngược lại, đã trọn vẹn và ít điều kiện hơn. Điều đó cũng phù hợp với chiến lược của Mỹ và nhu cầu chính trị của chính ông.

Năm 1947, Liên Hợp Quốc (LHQ) bỏ phiếu thành lập một nhà nước Do Thái – và một nhà nước Palestine – từ những gì đã là , và chiến tranh nổ ra ở Đất Thánh. Tổng thống Harry S. Truman công nhận Nhà nước Israel sau khi lãnh đạo của họ tuyên bố độc lập vào tháng 5 năm 1948. Truman có thể hy vọng thu hoạch lợi ích chính trị với cử tri Do Thái khi ông tranh cử sau đó trong năm đó. Ngay cả vậy, ông kiêng kỵ, lúc đó và sau này, không cung cấp viện trợ quân sự cho Israel. Truman mong muốn ngăn chặn cuộc chạy đua vũ trang ở Trung Đông và ông không muốn hoàn toàn xa lánh các quốc gia Ả Rập.

Năm 1956, Israel âm mưu với Pháp và Anh để . Israel chiếm bán đảo Sinai, mà nó coi là đệm an ninh chống lại quân đội Ai Cập.

Tổng thống Dwight D. Eisenhower rất tức giận trước những gì ông thấy là sự gian dối và trò đùa của đồng minh châu Âu và sự phiêu lưu của Israel. Trọng tâm của Eisenhower là Chiến tranh Lạnh và ông tin rằng nỗ lực đế quốc của Anh và Pháp nhằm đàn áp chủ nghĩa dân tộc Ai Cập, được Israel hỗ trợ vì mục đích riêng của mình, sẽ tăng ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Á và châu Phi. Cuộc xâm lược diễn ra chỉ vài ngày trước khi Eisenhower giành chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử tái đắc cử, và vị thế chính trị mạnh mẽ trong nước khuyến khích ông lấy lại ưu thế ngoại giao. Ông đã gây sức ép buộc ba quốc gia xâm lược rút lui khỏi Sinai vào năm 1957.

Trái ngược với Eisenhower, một thập kỷ sau, khi nỗi sợ hãi của Israel trước sự xâm lược từ các quốc gia Ả Rập dẫn đến một cuộc chiến khác ở Trung Đông, Tổng thống Lyndon B. Johnson đồng cảm với Israel. Ngay cả vậy, ông cân nhắc kỹ lưỡng biểu hiện sự hỗ trợ của mình. Johnson viết cho Thủ tướng Levi Eshkol: “Tôi phải nhấn mạnh tính cần thiết đối với Israel không phải chịu trách nhiệm khởi xướng các hành động thù địch. Israel sẽ không phải một mình trừ khi quyết định hành động một mình.”

Johnson đã thực hiện khéo léo ngoại giao Trung Đông và nó không đóng vai trò trong sự sụp đổ cuối cùng của ông trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Năm 1973, Ai Cập và Syria tấn công Israel, tìm cách lấy lại lãnh thổ bị mất và quyền đàm phán. Tổng thống Richard M. Nixon – hoạt động với quyền lực chính trị lớn sau chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử tái đắc cử năm trước – đã cung cấp viện trợ quân sự không tiếc tay cho Israel. Chiến tranh Lạnh cũng đã có bước ngoặt mới và Nixon coi cuộc chiến là xung đột gián tiếp giữa Đông và Tây. Mặc dù hành động của Nixon đã đưa Mỹ và Liên Xô rất gần đến một cuộc đụng độ, cuối cùng sự hỗ trợ của ông đối với Israel đã giúp cuộc chiến trở thành một trận hòa. Kết quả này chuẩn bị đường cho hiệp ước hòa bình sau này giữa Ai Cập và Israel, khi mỗi quốc gia chứng minh sức mạnh quân sự của mình, trong khi mỗi quốc gia cũng nhận ra rằng họ không thể áp đảo lẫn nhau trên chiến trường.

Đến những năm 1980, cuộc xung đột giữa Israel và thế giới Ả Rập chuyển sang một mặt trận và những người chơi mới. Căng thẳng đã gia tăng trước các cuộc tấn công của các nhóm Palestine chống lại miền bắc Israel và mối đe dọa chính trị mà phong trào dân tộc Palestine – dựa trên Lebanon – đặt ra đối với sự kiểm soát của Israel đối với Bờ Tây. Tổng thống Ronald Reagan cho phép Israel tấn công Lebanon và phá hủy Tổ chức Giải phóng Palestine, mà Thủ tướng Israel Menachem Begin so sánh với Đức Quốc xã.

Nhưng toàn bộ chính phủ Mỹ đều bị sốc khi Tướng Ariel Sharon của Israel bao vây Beirut, vượt quá kế hoạch mà ông đã chia sẻ với người Mỹ. Reagan, rất thân thiện với Israel, cảm thấy bị lợi dụng. Sự phản đối công khai chống lại việc Israel bắn phá các khu dân cư dân sự đã làm tăng thêm sự xa lánh của Reagan đối với hành vi của Israel. Ông đã buộc tội rằng Israel đang gây ra một “thảm sát” và yêu cầu thủ tướng ngừng cắt nước và điện cho Beirut. Begin rất tức giận, nhưng ông tuân thủ mong muốn của Reagan.

Mặc dù là tổng thống nhiệm kỳ đầu, Reagan đã chứng tỏ sẵn sàng mắng nhiếc Israel khi ông cho rằng đồng minh của mình hành động liều lĩnh và vượt quá ranh giới nhân đạo. Ông bày tỏ quan tâm và đồng cảm về cái chết của thường dân Ả Rập, đặc biệt là trẻ em. Reagan sau đó đã thành công trong việc buộc PLO từ bỏ khủng bố và do đó đưa nhóm vào ngoại giao quốc tế, giúp mở đường cho các hiệp ước hòa bình Oslo trong những năm 1990.

Bài viết được cung cấp bởi nhà cung cấp nội dung bên thứ ba. SeaPRwire (https://www.seaprwire.com/) không đưa ra bảo đảm hoặc tuyên bố liên quan đến điều đó.

Lĩnh vực: Tin nổi bật, Tin tức hàng ngày

SeaPRwire cung cấp phát hành thông cáo báo chí thời gian thực cho các công ty và tổ chức, tiếp cận hơn 6.500 cửa hàng truyền thông, 86.000 biên tập viên và nhà báo, và 3,5 triệu máy tính để bàn chuyên nghiệp tại 90 quốc gia. SeaPRwire hỗ trợ phân phối thông cáo báo chí bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng Trung Giản thể, tiếng Trung Truyền thống, tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Indonesia, tiếng Mã Lai, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và các ngôn ngữ khác. 

Ngày nay, Biden phải đối mặt với tình huống khác với những gì các tiền nhiệm phải đối mặt. Những vụ giết người ghê gớm, chủ yếu là dân thường Israel, cũng như việc bắt cóc hàng trăm người vào ngày 7 tháng 10 của Hamas là chưa từng có. Không ngạc nhiên khi phản ứng của Israel dữ dội và lớn hơn nhiều so với những phản ứng trả thù trước đây. Tuy nhiên, Biden dường như đã bỏ qua các yếu tố chiến lược và chính trị đã hướng dẫn phản ứng của các nhà lãnh đạo Mỹ trước đây đối với cuộc chiến của Israel. Ông gắn bó chính trị với Netanyahu và lặp lại những điểm nói của Israel một cách trung thành. Tuy nhiên, sau phản ứng chỉ trích vì có vẻ như viết cho Israel một chi phiếu trắng, Biden